Bài đăng

Xây dựng chiến lược phát triển khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Đông Á - Chi nhánh Huế giai đoạn 2015 - 2020

Hình ảnh
Link bài viết: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/3742

Phát triển bền vững du lịch biển Cát Bà (Hải Phòng) : Luận văn ThS. Du lịch

Hình ảnh
Luận văn ThS. Du lịch (Chương trình đào tạo thí điểm) -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013 Electronic Resources Khái quát về du lịch biển và phát triển du lịch biển bền vững. Khảo sát hiện trạng hoạt động du lịch biển ở Cát Bà. Phân tích các nguyên nhân khiến du lịch biển Cát Bà thiếu bền vững. Đưa ra những giải pháp phù hợp hướng đến phát triển du lịch biển bền vữn (...) Link bài viết: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/35514

Phát triển du lịch sinh thái biển đảo Cù Lao Chàm - tỉnh Quảng Nam

Hình ảnh
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/12436

Trường địa vật lý của biển và đại dương

Hình ảnh
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19118 Các trường địa vật lý tiêu biểu của biển và đại dương là trường trọng lực và trường địa từ. Dị thường trọng lực xác định được vị trí phân bố tương đối của các địa khối có tỉ trọng khác nhau trong thạch quyển. Nhờ vậy có thể xác định được độ sâu ranh giới mặt Moho, các cấu trúc vĩ mô của vỏ Trái đất, hướng chuyển động nâng hạ của các mảng và địa khối, từ đó có thể xác định được các đứt gãy có tính chất hành tinh và khu vực. Trường địa từ là trường từ tự nhiên của Trái đất. Mỗi một loại đất đá có một dị thường từ đặc trưng, khi các địa khối tách giãn hoặc bị xoay do chuyển động kiến tạo thì hướng trục từ cũng bị xoay theo. Nhờ vậy giúp ta biết được hướng chuyển động và biên độ chuyển động của các mảng và địa khối. Dị thường từ đáy các đại dương có đặc điểm là tồn tại hệ thống dị thường đường thẳng song song định hướng với trục sống núi trung tâm đại dương, có sự xen kẽ các dị thường âm và dương “kiểu khung xương”. Loạt mang d...

Đá Silic

Hình ảnh
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19156 Quá trình phong hoá các đá trầm tích trên mặt đất hay các vật liệu núi lửa trong biển tạo nên phần lớn silit chuyển vào dung dịch. Dung dịch có chứa vài mg silic/l (1) không phải là hiếm gặp. Trong tự nhiên chúng tồn tại ở trạng thái dung dịch keo hoặc dung dịch silicat kiềm. Những dung dịch ấy là nguồn kết tủa vô cơ hoặc sinh hoá thành tạo các đá trầm tích silixit. Nước trên lục địa cũng như nước biển thường chứa nhiều sinh vật trôi nổi có bộ xương silit như Tảo silit (Diatome), Trùng tia (Radiolaria), v.v. sự tích tụ xác của chúng tạo nên các đá silixit nguồn gốc sinh hoá. Các đá trầm tích silixit nguồn gốc vô cơ thường có cấu tạo trứng cá và thành tạo ở lục địa, trong môi trường nước ngọt. Cho đến nay người ta chưa tìm thấy kết tủa silit (vô cơ) ở biển và đại dương. Sự tích tụ silit trong đại dương hiện đại phụ thuộc nhiều yếu tố phức tạp. Khả năng hoà tan của silit trong đới quang hợp thay đổi theo mùa phù hợp với thời...

Quy mô chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển, giai đoạn 2008-2014

http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/14543 Giai đoạn nền kinh tế toàn cầu có nhiều biến động 2008-2014, rất cần thiết có nghiên cứu về mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế và hiệu quả hoạt động của khu vực công. Từ đó, đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động khu vực công, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Điều này không chỉ có ý nghĩa thực tiễn đối với các nước đang phát triển trong phạm vi nghiên cứu nói chung và hơn hết có thể áp dụng đối với Việt Nam nói tiêng trong việc giải quyết tình trạng chi tiêu công không hiệu quả và nợ công như hiện nay.

Địa hình đáy đại dương

Hình ảnh
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19344 Địa hình đáy biển và đại dương rất đa dạng do các quá trình địa chất quy định. Có hai quá trình chuyển động cơ bản, là phân kỳ và hội tụ, đã tạo nên các dạng địa hình khác nhau. Tuy nhiên, phân loại địa hình đáy biển và đại dương phải theo đặc điểm độ dốc, đặc điểm địa hình đáy và cấu trúc địa chất. Địa hình thềm lục địa bao gồm thềm trong, thềm ngoài, có độ dốc tương đối thoải (từ 0,5 đến 20) là kết quả của hai quá trình chuyển động nội sinh và ngoại sinh. Thềm lục địa rộng hay hẹp phụ thuộc vào kiểu rìa lục địa. Rìa thụ động thì thềm lục địa rộng và thoải. Ngược lại, rìa tích cực thì thềm hẹp và dốc. Địa hình sườn lục địa có bề mặt không bằng phẳng, tương đối dốc thay đổi từ 5 đến 450, phụ thuộc vào kiểu rìa lục địa. Rìa tích cực có sườn lục địa hẹp, phát triển nhiều núi lửa và hẻm vực (canyon), thường không có chân dốc thềm lục địa, mà chuyển ngay vào lòng chảo đại dương. Lòng chảo đại dương có địa hình lòng chảo rộng và ...